Sống trên “biển bạc” vẫn chưa thoát nghèo

Việt Nam có đường bờ biển dài khoảng 3.260 km với diện tích biển trên 1 triệu km2 – gấp 3 lần diện tích đất liền – và hơn 3.000 hòn đảo lớn nhỏ. Thế nhưng, theo nhận định của PGS-TS Nguyễn Chu Hồi, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nghề cá Việt Nam, dù sống trên “biển bạc”, ngư dân nước ta phần lớn vẫn chưa thoát nghèo.

Ngày càng bấp bênh

Quảng Ngãi là tỉnh có số lượng tàu cá thuộc hàng lớn nhất nước. Theo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN-PTNT) tỉnh Quảng Ngãi, tính đến tháng 2-2022, toàn tỉnh có hơn 4.500 tàu cá, với tổng công suất gần 1,8 triệu CV, trong đó 3.261 tàu là loại dài từ 15 m trở lên, khai thác xa bờ.

Thế nhưng, sản lượng thủy sản khai thác năm 2021 của Quảng Ngãi chỉ đạt khoảng 264.000 tấn. Riêng 6 tháng đầu năm 2022, sản lượng khai thác thủy sản sụt giảm hơn. Lý do là ngư trường cạn kiệt, giá hải sản bấp bênh, giá nhiên liệu tăng cao… Trong khi đó, công nghệ đánh bắt của đa phần tàu cá ngư dân Quảng Ngãi còn hạn chế, cho năng suất thấp khiến nghề biển đang lao đao hơn bao giờ hết.

Ngư dân Lê Ngọc Thanh – ngụ xã Nghĩa An, TP Quảng Ngãi; chủ con tàu công suất 450 CV đang neo hơn một tháng qua ở cảng Tịnh Kỳ, TP Quảng Ngãi – cho biết việc cho tàu nằm bờ là bất đắc dĩ vì không còn cách nào khác. “Gia đình tôi đã làm nghề lưới rê bao đời này – từ ông nội đến cha và giờ đến tôi – nhưng nghề biển ngày càng gặp khó khăn. Giá nhiên liệu tăng cao trong khi thủy sản đánh bắt được không nhiều nên càng đi càng thua lỗ, chuyến nào tổn phí cũng 50-60 triệu đồng. Lỗ quá nên tàu phải neo ở bờ. Dù biết tàu nằm bờ rất nhanh hư hỏng nhưng tôi không còn cách nào khác” – ông Thanh bày tỏ.

Ngư dân Lê Văn Năm phải đi làm thuê trên chính con tàu của mình do chậm trả lãi, bị ngân hàng xiết tàu để thu hồi nợ .Ảnh: TRẦN THƯỜNG

Tàu cá nằm bờ kéo theo những dịch vụ hậu cần trong bờ của hàng ngàn gia đình, người lao động lao đao theo. Bà Phạm Thị Công – Chủ tịch UBND xã Nghĩa An, TP Quảng Ngãi – cho biết địa phương này có hơn 800 tàu cá với khoảng 5.000 ngư dân nhưng nghề biển ở đây đang gặp rất nhiều khó khăn.

“Thực tế này đang ảnh hưởng đến đời sống người dân và tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Nhiều chủ tàu, ngư dân cầm cố nhà cửa vay vốn đóng tàu trước đây nay không có khả năng trả nợ ngân hàng dẫn đến nợ xấu. Mỗi tuần có khoảng 5 vụ án dân sự liên quan đến vay nợ ngân hàng. Đến nay, có gần 700 vụ việc bị tòa án thẩm định tài sản tại chỗ và thi hành án theo quy định của pháp luật” – bà Công lo lắng.

Mấy năm gần đây, nghề biển ở Thanh Hóa cũng đứng trước nhiều thử thách. Nhiều ngư dân không thể gắng gượng, đành phải bán tàu, chuyển sang nghề khác.

Ông Nguyễn Văn Quang – Phó Chủ tịch UBND xã Ngư Lộc, huyện Hậu Lộc – cho biết toàn xã có 300 phương tiện khai thác thủy sản, trong đó tới một nửa là tàu đánh bắt ven bờ. Ông thừa nhận việc tàu thuyền của ngư dân nhiều năm nay gặp khó khăn khi vươn khơi bám biển đã ảnh hưởng rất lớn tới công ăn việc làm của hơn 3.000 lao động tại địa phương, vốn dựa vào nghề biển.

Tại TP Đà Nẵng, theo ngư dân Nguyễn Đình Bê – trú quận Sơn Trà, người có hơn 34 năm đi biển – nghề cá đang rất bấp bênh. Tàu vỏ gỗ công suất 800 CV của ông Bê có tổng cộng 11 ngư dân, đánh bắt tại ngư trường Hoàng Sa, thường khoảng 25 ngày/chuyến. Cách đây khoảng 2 năm, phí tổn (mua nhiên liệu, đá cây, thực phẩm) khoảng 120 triệu đồng/chuyến biển, nay đã lên đến hơn 160 triệu đồng nên nhiều chuyến ra khơi chỉ hòa vốn hoặc lỗ.

Thôn Sâm Linh Tây, xã Tam Quang, huyện Núi Thành, tỉnh Quảng Nam có cả đội tàu hàng chục chiếc với công suất trên 700 CV, thường xuyên đánh bắt hải sản ở các vùng biển xa. Trong đó, nhiều gia đình sở hữu 2-3 chiếc tàu lớn. Nhiều gia đình ăn nên làm ra nhưng cũng không ít gia đình thất bại với nghề biển.

Với chính sách hỗ trợ của nhà nước, ngư dân Sâm Linh Tây mạnh dạn vay vốn đóng tàu vươn khơi với ước mơ đổi đời. Song, vì thiếu kỹ năng quản trị nên nhiều người lâm vào cảnh nợ nần, bị ngân hàng xiết nợ phải đi làm thuê trên chính con tàu của mình.

Nhiều tàu cá tại Đà Nẵng nằm bờ vì mỗi chuyến biển hiện nay đa phần thua lỗ .Ảnh: HẢI ĐỊNH

Không riêng những địa phương kể trên, nhiều ngư dân, lao động nghề cá ở các địa phương có biển đều chung hoàn cảnh như vậy.

Tại xã biển Cảnh Dương, huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình, dù đang mùa đánh bắt chính, thời tiết thuận lợi nhưng nhiều tàu thuyền vẫn neo đậu ở bến cảng. Ông Trương Minh Tuấn (ngụ thôn Trung Vũ, xã Cảnh Dương) – chủ một tàu cá đánh bắt ở ngư trường Hoàng Sa và các vùng biển lân cận – cho biết mỗi chuyến đi kéo dài 15 – 20 ngày, chủ yếu khai thác cá hố xuất khẩu. Cá hố những năm trước giá dao động 120.000 – 150.000 đồng/kg, nay còn 50.000 đồng/kg nên thu không đủ bù chi. Nhiều chuyến ra khơi về, ngư dân lỗ nặng.

Theo Chi cục Thủy sản tỉnh Quảng Bình, tỉnh này đang có khoảng 24.100 ngư dân trực tiếp tham gia khai thác thủy sản trên biển. Nhìn chung, thu nhập nghề biển bấp bênh trong khi đa số ngư dân là lao động chính trong gia đình có nhiều người sống phụ thuộc, dẫn đến cuộc sống ít ổn định, đặc biệt là khai thác ven bờ khi nguồn lợi đang cạn kiệt.

Phương tiện, kỹ thuật còn thô sơ, lạc hậu

Dọc bãi biển Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa – từ phường Quảng Cư tới xã Quảng Đại – có tới hàng ngàn con tàu và bè mảng vẫn hằng ngày mưu sinh trên biển. Việc ra khơi của ngư dân phụ thuộc vào may rủi, đánh bắt theo lối truyền thống, được con gì thì hay con đó.

“Đánh bắt gần bờ thường chỉ khai thác các loài hải sản nhỏ, giá trị không cao. Chúng tôi cũng chỉ ra khơi trong ngày, kiếm được 500.000 – 1 triệu đồng trang trải cuộc sống là mừng, chứ chẳng mong giàu có gì. Đây là nghề truyền thống lâu đời, chúng tôi chẳng biết làm gì khác. Cũng muốn đóng tàu lớn vươn khơi nhưng chúng tôi không đủ tiền” – ngư dân Viên Văn Viễn – xã Quảng Hùng, TP Sầm Sơn – bộc bạch.

Phương tiện đánh bắt lạc hậu bằng thuyền nan của ngư dân Thanh Hóa .Ảnh: THANH TUẤN

Sở NN-PTNT tỉnh Thanh Hóa cho biết trên địa bàn tỉnh hiện có 6.513 phương tiện khai thác, đa số là tàu vỏ gỗ. Một số nơi còn tồn tại phương tiện thuyền đánh cá đóng bằng nan, luồng chủ yếu hoạt động vùng ven bờ, sáng đi chiều về.

Ông Nguyễn Văn Toản – Phó trưởng Phòng NN-PTNT huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa – nhìn nhận đội tàu xa bờ của địa phương tuy hùng hậu nhưng vẫn đánh bắt theo lối truyền thống tại các ngư trường quen thuộc. “Do công nghệ bảo quản hiện nay chủ yếu là ướp đá nên tàu chỉ ra khơi 10-15 ngày là phải quay về bờ, trong khi ngư trường xa phải đi hàng tháng trời. Việc đầu tư hầm chứa theo công nghệ mới rất tốn kém, tàu cũ lạc hậu cũng không thể làm được. Vì thế, giá trị đầu ra hải sản của địa phương vẫn còn thấp” – ông Toản nhận xét.

Theo ngư dân Nguyễn Đình Bê, ngư trường hiện rất hạn hẹp, ngư dân hầu như không được áp dụng các kỹ thuật tiên tiến trong việc dò cá. Đơn cử, tàu 800 CV hành nghề lưới cản của ông mất 8 – 9 giờ cho một lần kéo lưới. Dù có áp dụng công nghệ để rút ngắn thời gian kéo lưới thì trình độ nhân lực, máy móc phụ trợ trên tàu (công đoạn gỡ cá, chuyển vào kho lạnh hoàn toàn thủ công) vẫn không đáp ứng kịp. Điều này ảnh hưởng lớn đến năng suất đánh bắt theo phương thức lưới cản.

Trang thiết bị trên các tàu cá hiện nay hầu hết đều thô sơ, chỉ có máy nhắn tin, máy giám sát hành trình, máy nội bộ…, rất ít tàu được trang bị máy dò cá. Ngư dân hầu hết đánh cá theo cảm tính và kinh nghiệm nhìn “luồng cá”.

Ông Bê cho biết bạn thuyền hầu hết trình độ học vấn không cao, chỉ cần sức khỏe là có thể đi biển. Vì trình độ học vấn hạn hẹp nên phần lớn ngư dân không thể làm chủ công nghệ tiên tiến, chủ yếu đánh bắt thủ công.

Quảng Nam là một trong những địa phương có số lượng tàu thuyền, lao động làm nghề biển đông nhất nước. Nhưng theo ông Võ Văn Long, Chi cục trưởng Chi cục Thủy sản tỉnh Quảng Nam, việc áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật đối với ngư dân trên địa bàn vẫn còn chậm. Nhiều ngư dân ngại thay đổi nên hiệu quả đánh bắt, khai thác trên biển chưa cao. Nhìn chung, ngư dân tỉnh Quảng Nam ít dùng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, đa phần dùng kinh nghiệm truyền thống để đánh bắt. 

Kỳ tới: “Lớn thuyền, lớn sóng”


Khai thác gần bờ quá mức

Theo PGS-TS Nguyễn Chu Hồi, trình độ lao động khai thác hải sản (trừ khối quốc doanh) ở nước ta còn thấp. Hầu hết ngư dân đi biển theo kinh nghiệm “cha truyền con nối”. Lao động ngoài quốc doanh (chiếm trên 90% tổng số lao động nghề biển) đa số là những người nghèo, không mua sắm được phương tiện khai thác, phải đi làm thuê (thợ bạn/bạn thuyền) cho các chủ tàu.

Cùng với đó, trên 80% tàu thuyền hoạt động ở các vùng nước gần bờ, nơi chỉ chiếm khoảng 11% diện tích vùng đặc quyền kinh tế. Áp lực khai thác quá mức ở vùng gần bờ làm cho nguồn lợi vùng này suy kiệt nghiêm trọng, khả năng phục hồi rất chậm. Tình trạng đánh bắt có tính tận diệt và hủy diệt vẫn chưa chấm dứt trong các cộng đồng ngư dân.


Nhóm Phóng viên